TÌM HIỂU VỀ KIẾM TRUNG HOA VÀ VIỆT NAM.

Kiếm Trung Hoa:


1. Nguồn gốc của kiếm

Kiếm Trung Quốc là loại binh khí ngắn có hai lưỡi bén, còn được mệnh danh là "Vua của trăm binh khí có lưỡi". Kiếm xuất hiện trước thời Ân Thương (thế kỷ 17- 14 tr CN). ến thời Xuân Thu Chiến Quốc (770 - 221 tr CN) tục đeo kiếm, đấu kiếm thịnh hành, do đó lý luận về kiếm thuật cũng phát triển tương ứng. ời Hán đấu kiếm lại càng trở thành phong tục thịnh hành từ trong triều tới ngoài nội, không ít người nhờ kiếm thuật mà lừng danh thiên hạ. Thời Tùy ường (58 - 618 - 907) hình dạng của kiếm phát triển tinh xảo, hoa mỹ, có ảnh hưởng rất lớn dến đời sau, nên đã có tên là Tỵ kiếm (ông tổ của kiếm). Từ đời Tống trở đi (960 - 1279) phong tục đấu kiếm dần dần thay bằng múa kiếm

2. ặc điểm của kiếm


Xét về mặt kỹ thuật chiến đấu, tự vệ và nguồn gốc các binh khí thời xưa chúng ta nhận thấy: Nói đến kích thước và trọng lượng, kiếm hay gươm không dài như thương hay kích nên không bị vướng víu ở những nơi chật hẹp , mà lại có khả năng tung hoành ở nơi đất trống, gò cao, kiếm cũng không nặng ở đầu mũi như đại đao, búa, chùy đòi hỏi người sử dụng phải có nhiều sức mạnh. Kiếm lại cũng không quá nhẹ, ngắn như bút, phiến, dao găm v.v...thiếu hẳn sự linh hoạt khi chống đỡ với những binh khí nặng nề hơn. Kiếm vừa tay, dễ mang bên hông, hoặc vác trên vai, cầm ở tay, nhẹ nhàng và tiện dụng

Vì kiếm được dùng từ xưa, cho nên các lối sử dụng vũ khí đều thoát thai từ lối đánh kiếm mà ra (mặc dù gậy và búa có trước kiếm, nhưng kỹ thuật sử dụng hai loại này cũng nhờ phép đánh kiếm mà cải tiến theo). Bởi vì ngày xưa, các võ khí như Qua, Mâu, Kích đều dùng trong chiến trận, hơn nữa lại còn dùng lối danh nhau bằng xe (xa chiến) nên đánh, đâm, tiến thoái đều có quy định, theo mệnh lệnh mà động thủ, không hề nhảy nhót mau lẹ, tự do tung hoành, biến hóa như ý. Chỉ có kiếm là vật dụng người xưa thường mang theo dể dàng, có thể sử dụng để tự vệ lúc nào cũng được, và kiếm thuật đạt được đến chổ xảo diệu vì nhiều người học, nhiên cứu và sáng tạo.

Ngoài ra kiếm được dùng rộng rãi vì các lý do sau đây:

* Thứ nhất, kiếm được coi là vật tượng trưng cho quyền lực và địa vị như hoàng đế thường ban cho các đại thần thân tín "Thượng phương bảo kiếm" có quyền sinh sát, chém trước, tâu sau.

* Thứ hai, kiếm được các vị đạo sỹ lấy làm pháp khí dùng trong khi làm lễ về tôn giáo, nói rằng kiếm có thể " hàng yêu, trừ ma"

* Thứ ba, kiếm được coi là tiêu chí biểu thị địa vị và đẳng cấp trong lễ nghi. Sách vở cổ có ghi chép lại chế độ đeo kiếm rất nghiêm ngặt như người đeo kiếm tuổi tác khác nhau, địa vị khác nhau thì kim loại và đá quý trang sức trên kiếm cũng phải khác

* Thứ tư, trong chiến tranh kiếm được coi là vũ khí để tự vệ khi các vũ khí dùng trong chiến trận bị hư, gãy. Trong thời bình kiếm được coi là một thứ trang sức phong nhã, văn thân hoc sĩ đeo kiếm để tỏ ra mình là cao nhã không dung tục. Vả lại cái đẹp của kiếm vừa thư vừa hùng nên cho dù nam hay nữ đều có thể đeo và sử dụng

3. Cấu trúc của kiếm

Kết cấu của kiếm nói chung chia làm hai bộ phận chính: thân kiếm và cán kiếm. Thân kiếm do lưỡi kiếm (kiếm thân), mũi kiếm (kiếm phong) tạo thành. Cán kiếm do vành chắn(hộ thủ), cán kiếm (kiếm bính), đốc kiếm (kiếm đối). Ngoài ra còn có bao kiếm, tua kiếm là các vật phụ thuộc

ộ dài của kiếm xưa nay sai lệch rất nhiều. Trong các vật đào được, đoản kiếm ngắn 40 cm, loại như chủy thủ dùng để đánh xáp lá cà hoặc ném đánh từ xa; trường kiếm dài đến 140 cm có thể dùng hai tay cầm cán kiếm. Theo phong trào võ thuật hiện đại, độ dài của kiếm theo "quy tắc thi đấu või thuật" quy định thì khi vận động viên cắp ngược kiếm thõng hẳn tay xuống thì mũi kiếm chấm đến vành tai là chuẩn

4. Chủng loại của kiếm

Chủng loại của kiếm có rất nhiều, các phái kiếm thuật đều có phong cách riêng, đặc điểm riêng tựu chung thì có: trường kiếm, đoản kiếm, kiếm răng cưa, kiếm hình rắn, kiếm móc câu, kiếm lá liễu...

5. ặc điểm cơ bản của diển luyện kiếm

Kiếm thế tạo hình đẹp đẽ, chiêu thế thay đổi rõ rệt, động tác nhẹ nhàng tiêu sái cao nhã(tự nhiên thoải mái, không gò bó) bộ pháp nhẹ nhàng linh động, vững chắc mạnh mẽ, nhanh nhẹn đa biến; kiếm pháp quy củ chỉnh trang rõ ràng, người và kiếm hợp điệu . Lời xưa bảo "kiếm như gió bay", "kiếm đi thức đẹp", kiếm tựa rồng lượn. Diễn luyện kiếm thuật thì động tĩnh nhanh chậm, lên xuống, tiến lùi, cứng mềm nặng nhẹ, co duỗi nhô hụp ...đều phải nhẹ nhàng bay bổng, cứ như phượng bay, én liệng, kiếm thế biến hóa tự nhiên, trăm vẻ, ngàn dáng.Có nhiều cách diễn luyện kiếm: đơn kiếm, song kiếm, tuệ kiếm (kiếm có tua), song thủ kiếm (kiếm cầm hai tay), thế kiếm (công kiếm, trạm kiếm), hành kiếm, miêu kiếm, túy kiếm...

6. Kiểm tra kiếm

Có hai cách để kiểm tra kiếm: kiểm tra kiếm sau khi sử dụng, hoặc kiểm tra bằng cách nhận định hình dáng, cấu tạo bên ngoài của một thanh kiếm

Có vài thủ tục phải tuân thủ khi kiểm định một thanh kiếm

- Thứ nhất: kiếm luôn được truyền từ người này sang người kia bằng cách đưa cán kiếm đi trước, điều này hạn chế sự nguy hiểm có thể xảy ra

- Thứ hai:Người cầm kiếm không bao giờ được đụng lưỡi kiếm với tay trần vì muối từ mồ hôi dưới da sẽ làm han rỉ kiếm

- Thứ ba: Khi xem kiếm, luôn giữ khoảng cáchít nhất 8 inches (20 - 30 cm) từ mũi và miệng, để hơi ẩm từ hơi thở không làm han rỉ kiếm

- Thứ tư: Người cầm kiếm không bao giờ chỉ mũi kiếm vào người khác để bày tỏ phép lịch sự và đảm bảo sự an toàn

- Thứ năm: Kiểm tra lưỡi kiếm bằng cách một tay cầm cán kiếm còn phần còn lại của lưởi kiếm đặt trên vỏ kiếm. Nếu không có vỏ kiếm thì dùng móng tay của ngón tay cái hoặc tay áo của tay còn lại , mục đích là để bảo vệ lưởi kiếm không bị han rỉ

7. Chọn kiếm

Ngày nay với kỹ thuật luyện kim tân tiến bạn có thể mua một cây kiếm vừa ý tại bất cứ tiệm bán dụng cụ võ thuật nào mà bạn chọn. Các loại kiếm xi, mạ hay bằng nhôm sẽ rẻ tiền hơn nằng thép thật, dầu vậy chúng đều có thể dùng để luyện tập. Sau đây là cách chọn kiếm của phái Bắc Thiếu lâm

Kiếm phải dài 30 inches (80 cm), hoặc dài hơn, phần hộ thủ (che tay) tốt nhất hướng về lưỡi kiếm hơn là hướng về cán kiếm.

ộ dày của lưỡi kiếm từ gốc đến ngọn phải bằng nhau, không được dày mỏng thất thường

Lưỡi kiếm phải thẳng từ đầu đến cuối

Lưỡi kiếm phải gắn chặt vào cán kiếm, không bị lỏng (rơ) ra khi lắc nhẹ cán kiếm

Thép phải có độ đàn hồi để bẻ 30 độ mà không bị cong

Kiếm phải cân bằng tại điểm 1/3 chiều dài của cây kiếm tính từ đốc kiếm


8. Giữ gìn kiếm

ể bảo vệ kiếm khỏi bị hư hỏng, phải tuân thủ các đều sau đây

Khi đưa kiếm cho một người không biết gì về kiếm , phải hướng dẫn kỹ trước khi giao kiếm. ể bảo vệ kiếm của mình khỏi bị hư hỏng và để người khác khỏi bị thương khi cầm kiếm

Không bao giờ bỏ kiếm lăn lóc trên mặt đất, để khỏi bị dẫm đạp hoặc dinh hơi ẩm từ mặt đất làm han rỉ kiếm

Không bao giờ dùng tay trần để đụng lưỡi kiếm, mồ hôi từ da sẽ làm han rỉ kiếm
Tránh chém những vật không cần thiết, để lưỡi kiếm khỏi bị mòn và làm giảm tuổi thọ của cây kiệm

Cất giữ kiếm cẩn thận khi không dùng tới

Sau khi sử dụng cần bôi trơn một lớp mỡ trên lưỡi kiếm

Nếu không đủ khả năng thì không nên tập luyện với kiếm thật. iều này để bảo vệ bạn và cây kiếm của bạn

9. Phương pháp luyện kiếm

Sau đây là phương pháp luyện kiếm của Hòa thượng Liễu Viên chưởng môn đời thứ 9 của Lĩnh Nam Thiếu Lâm

Theo Hòa thượng, kiếm quý là kiếm không tỏa ra sát khí, nhưng tỏa cái dũng, cái tâm của người sử dụng kiếm. Muốn luyện kiếm quý, thời gian tốt nhất là mùa xuân, "kẹt" lắm thì mùa thu, còn các mùa khác luyện kiếm sẽ không có được thanh kiếm tuyệt vời nguyên tắc hàng đầu để có được một thanh kiếm tốt là phải chọn thép. Hòa thượng Liễu Viên chỉ ưng thép của Thụy iển hoặc của ức. Muốn có được thanh kiếm tốt, phải tuân thủ 15 công đoạn sau:

- em thép và gang cho vào lò nung đỏ

- Lấy thép và gang đưa lên đe, dùng búa đập ghép chúng vào với nhau thành nhiều lớp

- em vào lò nung trở lại, lấy ra khi rực đỏ, dùng búa kết chặt gang và thép quyện vào với nhau, sau đó cho vào nước lạnh để "tôi"

- Thép nguội rồi lại cho vào lò nung cho đỏ, đưa lên đe dùng búa đập thành hình lưỡi kiếm

- ưa lưỡi kiếm "ninh" trên bếp đúng ba ngày đêm

- Lấy lưỡi kiếm ra, nếu thép và gang đã trộn vào nhau từng lớp nổi lên như những thớ gỗ là được

- em lưỡi kiếm thô đó ném ra mưa gió 5 năm

- Chọn những lưỡi kiếm nào đã phơi mưa gió 5 năm mà không han rỉ thì đem đi mài

- Mài cho đến lúc lưỡi kiếm để trước sợi tóc, thổi một cái sợ tóc đứt làm đôi

- ặt lưỡi kiếm mới mài vào một khúc tre trong chứa đầy bùn, đem nung trở lại,
nung khúc tre cho đến khi cháy thành than thì lấy lưỡi kiếm ra

- em lưỡi kiếm mài với đá nhuyễn, khi nào sáng loáng và sác như nước thì ngưng

- Có được lưỡi kiếm rồi bắt đầu tạo dáng cho nó, như làm thanh kiếm "bách thọ" thì khắc 100 chữ thọ trên lưỡi kiếm

- ã hình thành vóc dáng thanh kiếm, nhưng phải mô phỏng sao cho thanh kiếm thời nay kông thua gì thanh kiếm cổ

- Ngưởi luyện kiếm phải biết những đường kiếm của cổ nhân sao cho thanh kiếm mình luyện ra có thể nhập vào những bài kiếm tuyệt vời của người xưa một cách nhuần nguyễn


Kiếm Việt Nam:



Kiếm Việt Nam xuất hiện rất sớm, từ thời đồ đồng ông sơn đã phát hiện được rìu chiến, dao găm (đoản kiếm), giáo, mũi lao, mũi tên, tấm che ngực, che cổ tay, cổ chân...Trong đó dao găm (đoản kiếm) có hình dáng rất hoa mỹ, đẹp mắt và được chạm trổ rất công phu. Một điều chác chắn là cha ông ta có kỹ thuật độc đáo để rèn đúc các loại binh khí bằng đồng và đỉnh cao là trống đồng ông sơn. Nhưng tiếc thay sau 1000 năm đô hộ của Bắc phương, kỹ thuật đúc trống đồng đã thất truyền, và kỹ thuật đúc kiếm của Việt Nam cũng bị chôn vùi; Càng tiếc hơn nữa là ngày nay người Việt Nam không có một kiểu kiếm riêng biệt đặc trưng cho dân tộc, mà hình dạng kiếm Việt Nam bị ảnh hưởng bởi các loại kiếm củaTrung Quốc, Nhật, Thái Lan, Pháp...

Về hình dạng kiếm của Việt Nam có hai loại: Loại hai lưỡi bén và loại một lưỡi bén còn gọi là gươm. Kiếm có hai lưỡi bén, thân thẳng có hình dạng giống kiếm củaTrung Quốc, nhưng hầu hết phần hộ thủ (che tay) đều hướng về cán kiếm hơn là hướng về lưỡi kiếm. ôi khi kiếm thẳng của Việt Nam mới nhìn qua thấy rất giống đoản kiếm của Tây phương.Loại kiếm có một lưỡi bén từ khoảng 1400 dến 1800 có hình dạng giống Liễu diệp đao của đời nhà Minh bên Tàu, nhưng phần cán kiếm lại giống kiếm Nhật, đôi khi lại có ảnh hưởng của Thái lan. Cây kiếm của vua Quang Trung hiện được trưng bày trong viện bảo tàng Sài gòn có hình dạng của kiếm của Thái Lan, đây cũng có thể là chiến lợi phẩm thu được trong trận chiến Rạch Gầm, Xoài Mút

Cuối thế kỷ 18, kiếm của Pháp bắt đầu ảnh hưởng đến hình dạng của kiếm Việt Nam, khi thực dân Pháp bắt đầu đặt nền thống trị lên nước ta. Một số kiếm đời nhà Nguyễn cho thấy kiếm thời này có phần hộ thủ hình chữ "D", vỏ và cán kiếm nạm bạc hay khảm xà cừ, lưỡi kiếm cong vòng giống kiếm Tây phương.

Số kiếm cổ xưa của Việt Nam còn lại đến ngày nay rất ít ỏi và hiếm hoi, việc nghiên cứu cần nhiều công sức và thời gian của các nhà khảo cổ, xã hội học, hay các nhà võ thuật học nếu như muốn khôi phục lại một nền kiếm thuật của nước nhà


(Đăng tại Đặc San Vovinam Việt Võ Đạo, số 27 Tháng 12/2001).