Chương 1. Cơ sở vật lý học
Giống như tất cả các môn võ khác, Aikido cũng sử dụng sức lực của con người để trả đòn hoặc khống chế đối thủ. Sức lực này về bản chất là các lực và chúng tuân theo các quy luật vật lý. Trong chương này chúng ta sẽ xem lại một số khái niệm quan trọng của vật lý làm tiền đề cho các phân tích đòn thế Aikido.
Tài liệu tham khảo: BMTD nghĩ rằng đa phần các ACE đều đã biết các định luật cơ sở của Vật lý học sẽ được trình bày trong chương này. Nếu cần xem lại cho có hệ thống thì có thể đọc trong các sách giáo khoa (chương trình trung học) hoặc các sách vật lý học cho năm đầu của các trường đại học kỹ thuật. Xin nêu một vài tài liệu tiêu biểu ở đây:
1. Benjamin Crowell, “Newtonian Physics”, trong bộ sách “The Light and Matter” đăng tại điểm Web: www.lightandmatter.com.
2. Lương Duyên Bình, Dư Trí Công, Nguyễn Hữu Hồ, "Vật lý đại cương", NXB Giáo dục 2003.
3. Nguyễn Viết Kính, Bạch Thành Công, Phan Văn Thích, "Vật lý học đại cương", NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2004.
Tóm tắt Chương 1. Cơ sở vật lý học
Từ góc độ võ học, chúng ta cần nắm vững các khái niệm sau:
- Quán tính là đặc tính của mọi vật nhằm duy trì trạng thái chuyển động hiện tại của nó. Lực là tác nhân làm thay đổi quán tính của vật.
- Chuyển động tròn xảy ra do lực hướng tâm. Nếu lực hướng tâm nhỏ thì vật sẽ chuyển động theo vòng lớn; ngược lại nếu lực hướng tâm lớn thì vật sẽ chuyển động theo vòng nhỏ.
- Trong một va chạm đàn hồi, nếu một vật đứng yên trước và sau va chạm thì vật kia (vật chuyển động) sẽ bảo toàn động lượng của mình và bị bật ngược ra sau với vận tốc bằng vận tốc trước khi va chạm.
- Một vật sẽ đổ ngã nếu trọng tâm của vật rơi ra khỏi mặt chân đế.
- Trọng tâm và đan điền là 2 điểm khác nhau. Ở người khi đứng thẳng, trọng tâm thường trùng với đan điền.
Chương 2. Cơ sở y học phương Tây
Y học phương Tây dựa trên những luận chứng khoa học rõ ràng và chặt chẽ về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành. Trong chương này chúng ta tập trung vào những (hệ) cơ quan có liên quan trực tiếp đến việc luyện tập các đòn thế Aikido, đó là:
1. Cấu trúc giải phẫu và vận động của chi trên (tay)
2. Cấu trúc và hoạt động cơ bản của hệ thống tiền đình (trong tai)
3. Cấu trúc và hoạt động cơ bản của hệ thống thần kinh
Tài liệu tham khảo: Những gì được trình bày ở đây không phải là những khái niệm quá chuyên sâu trong ngành y nên BMTD thiết nghĩ ACE có thể đọc và kiểm chứng ngay trên cơ thể của mình. Nếu cần tham khảo, ACE có thể tìm đọc trên mạng. Dưới đây xin nêu vài cuốn sách tiêu biểu.
1. Harold Ellis, "Clinical Anatomy", 11e, Blackwell Publishing, 2006.
2. Schaum's Easy Outlines "Human Anatomy and Physiology", McGraw-Hill, 2001.
Cấu trúc giải phẫu cơ xương khớp chi trên
2.1 Hệ thống vận động
Hệ thống vận động gồm có bộ xương làm khung, khớp giữa các đầu xương làm điểm nối và truyền lực, các cơ bám vào xương làm động cơ tạo lực. Xung quanh khớp có nhiều dây chằng rắn chắc bao bọc và ràng giữ các đầu xương cho khỏi trệch ra khỏi khớp.
Mỗi cơ thường phình to ở giữa (phần thịt) và thon nhỏ lại ở các đầu tận tạo thành các sợi gân rắn chắc bám vào xương. Đa số các cơ đều có 2 đầu: một đầu bám (gần) ở một xương, đầu kia bám (xa) vào xương kế cận (một số cơ có 3 hoặc 4 đầu như cơ tam đầu cánh tay, cơ tứ đầu đùi).
Khi co, các sợi cơ ngắn lại tạo ra lực kéo đầu cơ bám ở xa gần lại làm cho xương có đầu xa bám vào chuyển động theo chiều co của cơ quanh một khớp. Để co và tạo ra lực, cơ sử dụng năng lượng từ phản ứng đốt cháy glucose (đường) bằng oxy do máu cung cấp. Oxy này máu lấy từ khí trời trong quá trình hít thở ở phổi. Do vậy khi vận động mạnh và nhiều, phổi phải hít thở nhanh và nhiều để lấy đủ oxy; tim phải đập nhanh và mạnh hơn để kịp mang oxy đến cho cơ sử dụng.
AIKIDO chủ yếu ra đòn tác động vào chi trên (tay) của đối thủ nên ở đây chỉ trình bày cấu trúc giải phẫu và vận động của chi trên.
2.2 Phân đoạn chi trên
Chi trên có thể được phân thành 4 vùng (đoạn):
1. Vùng vai: Phần cao nhất của lồng ngực
2. Cánh tay: Đoạn đi từ vai đến cùi chỏ
3. Cẳng tay: Đoạn đi từ cùi chỏ đến cổ tay
4. Bàn tay: Đoạn cuối từ cổ tay đến các ngón tay
Giữa các đoạn này là các vùng khớp: khớp vai, khớp khuỷu (cùi chỏ) và cổ tay. Chúng ta tạm gọi là vùng khớp vì ở đây có nhiều khớp chứ không phải chỉ có một khớp.
Quy ước giải phẫu: Đứng thẳng, hai tay để dọc sát 2 bên thân, lòng bàn tay hướng ra trước, ngón út ở sát thân người (phía trong), ngón cái ở xa thân (phía ngoài).
2.3 Xương và khớp chi trên
Vùng vai có 2 xương tạo thành đai vai: Xương đòn nằm vắt ngang phía trước (từ giữa ngực chạy ngang ra chỗ khớp vai) và xương bả vai hình tam giác nằm úp vào phía sau lồng ngực. Góc trên ngoài của xương bả vai là một ụ xương có hình dạng như một cái chén (lõm) gọi là ổ chảo. [Chúng ta có thể sờ thấy xương đòn ở phía trước ngực và các u gờ của xương bả vai ở phía sau lưng.] Đai vai là bệ đỡ để chi trên tựa vững vào thân.
Cánh tay chỉ có một xương to gọi là xương cánh tay: Đầu trên phình to và hướng vào trong tạo thành một hình bán cầu (khớp với ổ chảo của xương bả vai để tạo thành khớp vai). Đầu dưới tận cùng bằng một ụ xương bè ngang hình ròng rọc tạo thành một trụ (ròng rọc) nằm ngang.
Cẳng tay có 2 xương: Một xương làm trục chính gọi là xương trụ (nằm phía trong); xương còn lại có thể xoay một phần quanh xương trụ gọi là xương quay (nằm phía ngoài). Đầu trên xương trụ to và lõm vào để khớp với trụ ròng rọc nằm ngang của xương cánh tay.
Chú ý rằng xương quay nằm phía ngoài (phía ngón cái) và đóng vai trò chính trong động tác sấp ngửa. Khi tay đang ở tư thế ngửa, hai xương trụ và quay nằm song song với nhau: xương trụ ở trong, xương quay ở ngoài. Khi chuyển qua tư thế sấp, đầu trên xương quay chỉ xoay nhẹ nhưng vẫn ở phía ngoài, còn đầu dưới xương quay chồm lên phía trước xương trụ và đi vào trong, làm cho thân của 2 xương vắt chéo với nhau: xương quay ở trên, xương trụ ở dưới.
Vùng cổ tay có nhiều xương nhỏ xếp khớp với nhau và nối với các xương bàn tay, làm cho vùng cổ tay rất linh hoạt. Nối với xương bàn tay là các xương ngón tay, mỗi ngón có nhiều đốt.
PS: Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về các khớp trong bài sau (phần "Vận động của chi trên").
2.4 Các cơ chi trên
Chi trên gồm rất nhiều cơ, khi vận động phối hợp với nhau cho phép chi trên thực hiện nhiều cử động đa dạng và phức tạp. Ở đây chúng ta chỉ phác họa một số nhóm cơ chính:
Nhóm cơ vùng ngực nằm xòe rộng phía trước ngực, bám vào các xương sườn rồi tụ lại chạy ra ngoài bám vào vùng đầu trên xương cánh tay. Khi co nhóm cơ này làm khép cánh tay vào thân và xoay cánh tay ra trước.
Nhóm cơ vùng lưng nằm tỏa rộng bám vào xương bả vai và lồng ngực phía sau rồi tụ lại chạy ra ngoài bám vào vùng đầu trên xương cánh tay. Khi co nhóm cơ này làm khép cánh tay vào thân và xoay cánh tay ra sau.
Nhóm cơ mặt trước cánh tay có đầu xa bám vào mặt trước các xương cẳng tay và làm gập cẳng tay vào cánh tay. Ngược lại nhóm cơ mặt sau cánh tay làm duỗi cẳng tay (kéo cẳng tay ra xa khỏi cánh tay).
Tương tự như trên, nhóm cơ ở mặt trước cẳng tay làm cho bàn tay gập vào cẳng tay (gập cổ tay), còn nhóm cơ mặt sau làm duỗi cổ tay. Ngoài ra còn một số cơ làm sấp ngửa bàn tay.
Chú ý rằng vùng cẳng tay có nhiều cơ chạy xuống bàn tay. Các cơ này khi đến vùng cổ tay thì không còn phần thịt nữa mà trở thành các sợi gân. Ngoài ra vùng cổ tay còn có nhiều dây chằng rất rắn chắc để bó giữ khối xương cổ tay lại với nhau. Chính vì vậy cổ tay là một vùng rất mạnh và linh hoạt, nhất là khi xòe rộng bàn tay.
PS: Các võ sư AIKIDO thường xòe rộng bàn tay khi thực hiện các đòn thế và nhiều người giải thích rằng làm như thế để khoáng trương KHÍ.
Tóm tắt Chương 2. Cơ sở y học phương Tây
Ở góc độ võ học, chúng ta cần ghi nhớ những điểm sau:
- Khớp vai có biên độ rất rộng ở phía trước nhưng khá hạn chế ở phía sau, nhất là khi cùi chỏ (khuỷu) bị gập lại (khóa ngang khớp khuỷu).
- Sấp ngửa là động tác của cẳng tay nhưng có ảnh hưởng đến cánh tay và cổ tay do cẳng tay nằm giữa. Các khóa Nikyo, Sankyo và Kote gaeshi có liên quan đến sấp ngửa và gập duỗi cổ tay.
- Chi trên mạnh nhất khi cẳng tay ở tư thế hơi gập. Do vậy chỉ nên ra đòn khi cẳng tay đã chuyển sang tư thế này.
- Tầm chủ lực là khoảng không gian chúng ta kiểm soát các động tác tốt nhất, đặc biệt là các động tác của chi trên.
- Đừng ra đòn khi chi trên đang ở vùng nhược thế vì chúng ta có thể bị làm mất thăng bằng và té ngã.
- Trương lực cơ là trạng thái cân bằng bền của cơ. Hiện tượng "cánh tay không bẻ được" là do các cơ chi trên được duy trì ở trạng thái trương lực.
- Hệ thống tiền đình trong tai là cơ quan "đo đạc" tư thế và thăng bằng của cơ thể. Làm nghiêng đầu đột ngột về một bên gây ra phản xạ thả lỏng các cơ vùng thân của bên bị nghiêng và co cứng các cơ vùng thân bên đối diện.
- Hệ thống thần kinh kiểm soát toàn bộ các hoạt động của cơ thể bằng cách nhận các tín hiệu (bên trong và bên ngoài) do các thụ thể cảm giác truyền về theo đường thần kinh cảm giác, xử lý chúng (tín hiệu) và ra lệnh cho các cơ hoạt động theo đường thần kinh vận động.
- Chức năng của hệ thần kinh bao gồm chức năng vận động (chủ ý) và chức năng thực vật (tự động). Khí công là một phương pháp luyện tập nhằm gián tiếp điều khiển chức năng thần kinh thực vật thông qua chức năng vận động.
Chuơng 3. Cơ sở y học phuơng Đông
Y học phuơng Đông là nền y học của các dân tộc Đông Á (Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản, ...), vốn đã được phát triển qua nhiều ngàn năm và chịu nhiều ảnh hưởng của nền y học Trung Quốc (Trung y). Do vậy khi nói đến y học phương Đông, chúng ta thường mặc nhiên xem như đang nói đến Trung y, mặc dù rất có thể nhiều thành tựu y học của những nước lân cận đã được du nhập vào Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử.
Theo đó, y học phương Đông được hình thành và phát triển trên cơ sở triết học cổ đại Trung Quốc, với quan niệm con người là một thực thể của vũ trụ, vì vậy chịu sự chi phối của các quy luật trong vũ trụ. Các quy luật này phản ánh trong thuyết Âm Dương và thuyết Ngũ Hành, mô tả sự hình thành, vận hành và phát triển của vũ trụ bằng một nguồn năng lượng vô hình gọi là KHÍ (tiếng Nhật viết là KI).
AIKIDO, như tên gọi của nó, đã mặc nhiên xem khái niệm KHÍ như một yếu tố cốt lõi. Tổ sư trong các buổi giảng dạy của mình thường nói đến KHÍ; võ sư Koichi Tohei trong một bài phỏng vấn của tạp chí Black Belt năm 1965 đã tuyên bố: No Ki No Aikido (Không có KHÍ thì không phải Aikido). Câu hỏi đặt ra ngay, vậy khí là gì?
Trả lời câu hỏi này thật không dễ, dù rằng môn luyện khí (khí công) đã có từ nhiều ngàn năm trước và hiệu quả của nó có thể kiểm chứng được.
Trong chương này, trước tiên chúng ta trình bày những khái niệm căn bản của y học phương Đông, trên cơ sở đó trình bày những quan niệm khác nhau về khí và các phương pháp luyện khí (khí công). Cuối cùng chúng ta thử đưa ra một cách lý giải để từ đó có thể vận dụng vào quá trình tập luyện của mình. Nội dung cụ thể bao gồm:
1. Thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành
2. Phủ tạng và hệ thống kinh mạch
3. Các quan niệm về đan điền và khí
Tài liệu tham khảo: Dưới đây xin liệt kê một số tài liệu chính đã được tham khảo khi viết chương này.
1. Nguyễn Hiến Lê, “Kinh dịch: Đạo của người quân tử”, Nhà xuất bản Văn Học, 1994.
2. Phùng Hữu Lan, “Lược sử Triết học Trung Quốc” (biên dịch: Lê Anh Minh), Nhà xuất bản Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, 2010.
3. Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn (Chú giải: Mã Nguyên Đài; Người dịch: Nguyễn Tử Siêu)
4. Men Jiuzhang, Guo Lei, "A General Introduction to Traditional Chinese Medicine", CRC Press, 2010.
5. Thái Hồng Quang, "Cẩm nang dưỡng sinh thông Kinh lạc", bản dịch của công ty Nhân Trí Việt, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, 2009.
6. Ngô Gia Hy, Bùi Lưu Yêm, Ngô Gia Lương, “Khí công học và Y học hiện đại”, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2010.
7. Yang, Jwing-Ming - Qigong for Health & Martial Arts, YMAA Publication Center, 1998.
8. Morihei Ueshiba, “BUDO: Les Enseignements du Fondateur de l’Aikido”, Editions Budostore, Paris.
9. Koichi Tohei, “AIKIDO: The Co-ordination of Mind and Body for Self-defense”, Souvenir Press, London, 1961.
10. Koichi Tohei, “Aikido in Daily Life”, Rikugei Publishing House, 1966.
11. Gozo Shioda, “Total Aikido: The Master Course”, Kodansha International, 1997.
12. Kisshomaru Ueshiba, “AIKIDO”, Hozansha Publishing, Japan, 1974.
13. Kisshomaru and Moriteru Ueshiba, “Best Aikido: The Fundamentals”, Kodansha International, Tokyo, 2002.
14. Đặng Thông Phong, Lynn Seiser, “Aikido Basics”, Tuttle Publishing, 2003.
Vũ trụ luận trong triết học cổ đại Trung Quốc
Hầu như mỗi dân tộc trên thế giới đều có những cách giải thích khác nhau về cội nguồn của mình, của loài người, của các loài sinh vật và của cả vũ trụ. Các “truyền thuyết” này phản ánh thế giới quan của con người từ thuở ban sơ, tìm cách lý giải về cội nguồn của mình và thế giới xung quanh.
Nền văn minh Trung Quốc cổ đại không chỉ ghi nhận các truyền thuyết. Các nhà tư tưởng đã đi một bước xa hơn, hệ thống hóa các truyền thuyết thành những luận thuyết về con người, về thế giới tự nhiên và về vũ trụ. 3 luận thuyết chủ đạo có ảnh hưởng đến Trung y là Khí, thuyết Âm dương và thuyết Ngũ hành.
3.1 Khí: Nguồn gốc của vũ trụ
Theo chủ thuyết này, vạn vật trong vũ trụ được hình thành từ KHÍ. Khí là cái vô hình, lan tỏa khắp nơi, khi ngưng tụ lại thì thành vạn vật, thành vũ trụ. Con người là một vật thể trong vũ trụ, vì vậy cũng được tạo ra từ khí.
Khí ở đây được gọi là tiên thiên khí và có khi được đồng nhất với khái niệm Thái Cực. Điều này có nghĩa là trước khi vũ trụ hình thành thì chẳng có gì khác ngoài tiên thiên khí. Khí hiện hữu khắp nơi, ngay cả khi vạn vật đã hình thành.
Bởi vậy, cơ thể con người chứa đầy khí, và mọi hoạt động đều có sự dẫn dắt của khí. Khí chuyển động thông suốt thì cơ thể mạnh khỏe; khí tắc nghẽn thì sinh bệnh.
3.2 Thuyết Âm dương
Tư tưởng chủ đạo của thuyết này xem Âm và Dương là 2 mặt đối lập trong một thể thống nhất, nghĩa là có đối lập, có tương tác và chuyển hóa qua lại nhưng vẫn thống nhất với nhau như được hình tượng trong vòng tròn Thái Cực hay Thái Cực đồ.
Theo đó, Dương biểu thị cho Mặt trời, cho ánh sáng, cho sức mạnh, cho cái động, cho giống đực, tương phản với Âm biểu thị cho Mặt trăng, cho bóng tối, cho yếu mềm, cho cái tĩnh, cho giống cái.
Thế giới tồn tại và phát triển nhờ Dương và Âm luôn tương tác với nhau, chuyển hóa lẫn nhau, khi đến cực Dương thì thành Âm, đến cực Âm lại trở về Dương. Hơn thế nữa, trong Âm có Dương và trong Dương có Âm, như ta thấy trong vòng tròn Thái Cực: trong nửa trắng (Dương) có một vòng đen (Âm); trong nửa đen (Âm) có một vòng trắng (Dương).
3.3 Thuyết Ngũ hành
Theo thuyết này, vũ trụ có 5 thành tố cơ bản là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Lúc đầu, người ta quan niệm đây là 5 yếu tố cấu thành vật chất, tương tự như khái niệm nguyên tố trong hóa học. Về sau, người ta giải thích đây không chỉ là 5 yếu tố vật chất mà còn là 5 động lực vận động: Thủy (nước) thấm xuống; hỏa (lửa) nóng bốc lên; mộc cong hay thẳng; kim biến dạng được; thổ có thể trồng trọt, gặt hái.
Ngũ hành hoạt động theo quy luật tương sinh, tương khắc:
- Mộc sinh Hỏa và khắc với Thổ;
- Hỏa sinh Thổ và khắc với Kim;
- Thổ sinh Kim và khắc với Thủy;
- Kim sinh Thủy và khắc với Mộc;
- Thủy sinh Mộc và khắc với Hỏa.
Quan niệm này được vận dụng vào Trung y để giải thích về đặc tính và hoạt động của các phủ tạng.
Huyệt, đan điền và hệ thống kinh mạch
3.5 Huyệt và đan điền
Theo quan niệm của Đông y, trên da có nhiều điểm hoặc vùng mà qua đó chúng ta có thể khơi thông, kích thích quá trình dẫn khí trong cơ thể. Các điểm hoặc vùng này được gọi là huyệt (đạo). Nối liền các huyệt là hệ thống kinh mạch cho phép dẫn khí đến các phủ tạng (xem phần bên dưới).
Trong thực tế, Đông y có khá nhiều phương pháp điều trị bệnh thông qua các huyệt như cạo gió, xoa bóp, châm cứu, ngải cứu. Mặc dù chưa chứng minh được cơ sở khoa học của những phương pháp này nhưng hiệu quả của chúng là điều không thể phủ nhận được.
Theo nhiều tài liệu, cơ thể người có 108 huyệt, trong đó nhiều huyệt có tính chất sinh tử, khi bị tác động mạnh có thể làm chết người hoặc làm cho không cử động được (hành động này được gọi là điểm huyệt). Hiện tác dụng này chưa có bằng chứng cụ thể ngoài việc người ta đã sử dụng phương pháp châm cứu để làm giảm đau và gây tê cục bộ.
Đan điền: Có nhiều quan niệm về đan điền. Ở đây chúng ta điểm lại một số quan niệm chính.
- Về số lượng, nhiều người cho rằng có 3 đan điền: Đan điền thượng (ở vùng đầu), đan điền trung (ở vùng gần rốn) và đan điền hạ (ở vùng cơ quan sinh dục), trong đó đan điền thượng là nơi chứa Thần, đan điền trung là nơi chứa Khí còn đan điền hạ là nơi chứa Tinh. Cũng có người cho rằng chỉ có một đan điền nằm ở vùng dưới rốn (tương ứng với đan điền trung). Một số người còn cho rằng vùng dưới rốn có 3 đan điền: đan điền trước, đan điền giữa và đan điền sau.
- Về vị trí, có người cho rằng đan điền là một huyệt cụ thể, như đan điền thượng là huyệt bách hội ở đỉnh đầu, đan điền trung là huyệt khí hải ở bên dưới rốn, đan điền hạ là huyệt hội âm. Tuy nhiên cũng có người cho rằng đan điền là một điểm hoặc vùng nhưng không phải là huyệt, chẳng hạn ở nữ đan điền nằm sau tử cung còn ở nam, đan điền nằm dưới tiền liệt tuyến.
Nhìn chung, người ta đều xem như có một vùng quan trọng ở vùng dưới rốn gọi là đan điền.
- Đối với nhà khí công, vùng này được xem như kho chứa khí (tàng khí). Người luyện khí công sẽ thu hút khí cất trữ tại đan điền và dẫn khí từ đan điền theo các kinh đến các phủ tạng để kiểm soát hoạt động của các phủ tạng.
- Đối với người tập võ, đan điền là nơi tập trung sức mạnh (khí lực) và cho phép duy trì thăng bằng. Chúng ta sẽ đưa ra những lập luận biện minh cho quan niệm này ở phần sau.
3.6 Hệ thống kinh mạch
Tương ứng với 12 phủ và tạng, Đông y cho rằng trong cơ thể có một hệ thống các đường dẫn khí đến các phủ tạng, gọi là các đường kinh. Mỗi phủ và mỗi tạng đều có một cặp đường kinh tương ứng, một ở bên phải, một ở bên trái.
- Phế kinh: Bắt đầu từ vùng ngực (huyệt Trung phủ) đi xuống tay ở phía mé ngón cái và tận cùng ở ngón tay cái (huyệt Thiếu thương);
- Đại trường kinh: Bắt đầu ở vùng ngón tay trỏ (huyệt Thương dương) và đi ngược lên tận cùng ở cạnh cánh mũi (huyệt Nghinh hương);
- Vị kinh: Bắt đầu ở vùng mặt (huyệt Thừa khấp), đi lên đầu ra sau và đi xuống kết thúc ở chân (huyệt Lệ đoài);
- Tỳ kinh: Bắt đầu ở vùng chân (huyệt Ẩn bạch) rồi đi ngược trở lên vùng ngực (huyệt Đại bao);
- Tâm kinh: Bắt đầu từ vùng nách (huyệt Cực tuyền) đi xuống ngón tay út (huyệt Thiếu xung);
- Tiểu trường kinh: Bắt đầu từ ngón tay út (huyệt Thiếu trạch) đi lên vùng trước tai (huyệt Thính cung);
- Bàng quang kinh: Bắt đầu từ khóe ngoài mắt (huyệt Tinh minh), đi lên đầu ra sau và đi xuống tận cùng ở ngón chân út (huyệt Chí âm);
- Thận kinh: Bắt đầu từ lòng bàn chân (huyệt Dũng tuyền) đi lên và tận cùng ở vùng ngực (huyệt Du phủ);
- Tâm bào kinh: Bắt đầu từ vùng ngực (huyệt Thiên trì) và đi xuống tận cùng ở ngón tay giữa (huyệt Trung xung);
- Tam tiêu kinh: Bắt đầu từ ngón tay áp út (huyệt Quan xung) chạy lên trên và tận cùng ở đuôi chân mày (huyệt Ty trúc không);
- Đảm kinh: Bắt đầu từ chỗ đuôi mắt (huyệt Đồng tử liêu), chạy lên góc trán rồi vòng ra sau đi xuống tận cùng ở ngón chân áp út (huyệt Túc khiếu âm);
- Can kinh: Bắt đầu từ ngón chân cái (huyệt Đại đôn) chạy lên trên tận cùng ở vùng ngực (huyệt Kỳ môn).
Theo đó, 12 kinh thông nối với nhau tạo ra 3 vòng nối:
- Vòng nối 1: Phế kinh, Đại trường kinh, Vị kinh, Tỳ kinh
- Vòng nối 2: Tâm kinh, Tiểu trường kinh, Bàng quang kinh, Thận kinh
- Vòng nối 3: Tâm bào kinh, Tam tiêu kinh, Đảm kinh, Can kinh
Ngoài hệ thống 12 cặp đường kinh như trên, có thể còn có bát mạch (8 mạch), trong đó 2 mạch quan trọng là Nhâm mạch và Đốc mạch, được ví như những hồ chứa khí làm nhiệm vụ điều phối khí cho hệ thống kinh.
- Nhâm mạch: Khởi đi từ đan điền, chạy ra phía trước và đi lên dọc theo đường giữa thân (bụng, ngực), qua cổ, ra cằm và tận cùng ở môi dưới (huyệt Thừa tương).
- Đốc mạch: Cũng khởi đi từ đan điền, chạy ra phía sau và đi lên dọc theo đường giữa thân (lưng), qua gáy và lên đỉnh đầu rồi ra trước đi xuống mặt, tận cùng ở môi trên (huyệt Ngân giao).
PS: Các nhà khí công cho rằng luyện tập khí công nhằm mục đích dẫn khí để nó lưu chuyển thông suốt trong các kinh mạch và cất trữ khí tại đan điền.
Các quan niệm về Khí và Đan điền
Như chúng ta đã nói ở đầu chương này, quan niệm xem Khí là nguồn gốc của vũ trụ là một trong những tư tưởng chủ đạo trong các luận thuyết về vũ trụ của người Trung Quốc. Tư tưởng này rõ ràng là cơ sở cho việc dùng khí, luyện khí trong Đông y, khí công và võ thuật. Trong phần này chúng ta sẽ xem qua những khái niệm khác nhau về khí.
3.7 Quan niệm Khí trong dân gian
Trong số các nước ở Đông Á, Việt Nam là dân tộc chịu sự ảnh hưởng nhiều nhất của các tư tưởng và văn hóa Trung Quốc do cả ngàn năm bị đất nước phương Bắc này đô hộ. Bởi vậy không lạ gì khi chúng ta thấy trong tiếng Việt có rất nhiều từ Hán-Việt có liên quan đến khái niệm Khí. Dưới đây là một số thí dụ.
- Một trong 3 trạng thái của vật chất: thể rắn, thể lỏng, thể khí
- Các chất mà tình trạng tự nhiên của chúng ở thể khí: không khí (nói chung), dưỡng khí (khí oxy), thán khí (khí các-bô-nic)
- Trạng thái sức khỏe: khí sắc, sinh khí
- Sức mạnh tinh thần: dũng khí, khí khái, khí phách
- Môi trường xung quanh: không khí (nghĩa đen), không khí vui vẻ (nghĩa bóng), hòa khí (nghĩa bóng), khí thế (nghĩa bóng)
- Yếu tố có hại, gây bệnh: tà khí
Theo đó, chúng ta thấy khái niệm khí bao hàm rất nhiều ý nghĩa, nhưng trong đó thường hàm chứa một ý nghĩa về sức mạnh, về động lực, và hơn hết là một nguồn lực của sự sống.
Tóm tắt Chương 3. Cơ sở y học phương Đông
Ở góc độ võ học, chúng ta cần ghi nhớ những điểm sau:
- Lý luận của y học phương Đông dựa trên cơ sở các học thuyết về vũ trụ trong triết học cổ đại của Trung Quốc: Khí, Âm Dương, Ngũ Hành.
- Hệ thống kinh mạch nối liền các phủ tạng với nhiệm vụ dẫn chuyển khí thông suốt trong cơ thể. Trên các đường kinh và mạch có các huyệt nằm nông ở da đóng vai trò như các trạm giúp khơi thông các dòng khí trong kinh mạch.
- Châm cứu, xoa bóp, cạo gió, day huyệt, ấn huyệt, … là các phương pháp khơi thông dòng khí đã được sử dụng từ vài ngàn năm trước ở phương Đông.
- Luyện khí công là phương pháp dùng ý để kiểm soát khí: thu hút khí từ trời đất thông qua các huyệt, vận chuyển khí qua các đường kinh mạch và cất trữ khí ở đan điền.
- Quan niệm khí và đan điền trong AIKIDO tựu chung vẫn là quan niệm đã có từ lâu trong khí công.
- Từ một quan điểm khoa học hơn, chúng ta có thể xem khí chính là dưỡng khí có trong không khí, được cơ thể hấp thụ và vận chuyển theo dòng máu đến các vùng cơ thể. Khí cũng chính là các luồng thần kinh kiểm soát các hoạt động giãn nở mạch máu và vận động của các cơ. Ngoài ra khí còn là các quy luật tự nhiên vận hành vũ trụ như chúng ta đã thấy.
- Đan điền là điểm trung tâm của vùng hông eo. Vùng này là vùng nối của thân với chi dưới và làm bệ đỡ cho toàn thân tựa trên chi dưới. Đan điền hầu như không bao giờ rơi ra khỏi mặt chân đế. Do vậy luyện tập để giữ trọng tâm tại đan điền là một trong những mục tiêu quan trọng của quá trình tập luyện AIKIDO.
Chương 4. Nguyên lý võ học AIKIDO và nguyên tắc thực hành
AIKIDO là một môn võ nhu. Và cũng giống như các môn võ nhu khác, luận điểm chính của AIKIDO là “Lấy nhu thắng cương”. Nghe qua quả là tuyệt diệu và thật hấp dẫn.
Thế nhưng không ai có thể chối cãi được lợi thế hiển nhiên của sức mạnh mà theo cách hiểu trực quan nhất là sức mạnh cơ bắp. “Cương” biểu thị sức mạnh cơ bắp. Và để “nhu” có thể khắc chế được “cương”, “nhu” phải sử dụng đến một loại sức mạnh khác, đó là sức mạnh của tinh thần, của trí tuệ, của kỹ thuật.
Sức mạnh này được xây dựng dựa trên các nguyên lý võ học AIKIDO, đó là những luận điểm có tính chất triết lý làm cơ sở để chúng ta đề ra các nguyên tắc thực hành cho quá trình tập luyện các đòn thế AIKIDO. Một khi đã hiểu rõ được các nguyên tắc này, mỗi võ sinh AIKIDO có thể tìm ra được một cách đánh hiệu quả nhất phù hợp với sở trường của mình trong những tình huống khác nhau. Khi đó, các đòn thế AIKIDO đã thiên biến vạn hóa, luôn chứa đựng yếu tố bất ngờ nên có thể đạt được hiệu quả tối ưu.
Trong chương này, trước tiên chúng ta sẽ thảo luận về 4 nguyên lý võ học AIKIDO:
1. Nguyên lý tự nhiên
2. Nguyên lý tâm-thể hiệp nhất
3. Nguyên lý hiệp khí
4. Nguyên lý biến dịch
Sau đó chúng ta sẽ đưa ra 6 nguyên tắc thực hành
1. Nguyên tắc an toàn
2. Nguyên tắc chuyển động
3. Nguyên tắc thăng bằng
4. Nguyên tắc điều vận khí
5. Nguyên tắc khóa khớp
6. Nguyên tắc ứng biến
PS: Sau khi hoàn tất chương này, nếu có thời gian tôi sẽ trình bày về các đề tài có tính thực tiễn hơn như Thân pháp trong AIKIDO và Đấu pháp của AIKIDO. Khi đó, tôi hy vọng sẽ có nhiều người cùng tham gia trao đổi và thảo luận. Kinh nghiệm thực tiễn phong phú của nhiều người sẽ là những bài kiểm tốt nhất cho những lập luận đã được nêu ra ở đây. Xin cám ơn.