Chương 2. Cơ sở y học phương Tây
Y học phương Tây dựa trên những luận chứng khoa học rõ ràng và chặt chẽ về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành. Trong chương này chúng ta tập trung vào những (hệ) cơ quan có liên quan trực tiếp đến việc luyện tập các đòn thế Aikido, đó là:
1. Cấu trúc giải phẫu và vận động của chi trên (tay)
2. Cấu trúc và hoạt động cơ bản của hệ thống tiền đình (trong tai)
3. Cấu trúc và hoạt động cơ bản của hệ thống thần kinh
Tài liệu tham khảo: Những gì được trình bày ở đây không phải là những khái niệm quá chuyên sâu trong ngành y nên BMTD thiết nghĩ ACE có thể đọc và kiểm chứng ngay trên cơ thể của mình. Nếu cần tham khảo, ACE có thể tìm đọc trên mạng. Dưới đây xin nêu vài cuốn sách tiêu biểu.
1. Harold Ellis, "Clinical Anatomy", 11e, Blackwell Publishing, 2006.
2. Schaum's Easy Outlines "Human Anatomy and Physiology", McGraw-Hill, 2001.
Cấu trúc giải phẫu cơ xương khớp chi trên
2.1 Hệ thống vận động
Hệ thống vận động gồm có bộ xương làm khung, khớp giữa các đầu xương làm điểm nối và truyền lực, các cơ bám vào xương làm động cơ tạo lực. Xung quanh khớp có nhiều dây chằng rắn chắc bao bọc và ràng giữ các đầu xương cho khỏi trệch ra khỏi khớp.
Mỗi cơ thường phình to ở giữa (phần thịt) và thon nhỏ lại ở các đầu tận tạo thành các sợi gân rắn chắc bám vào xương. Đa số các cơ đều có 2 đầu: một đầu bám (gần) ở một xương, đầu kia bám (xa) vào xương kế cận (một số cơ có 3 hoặc 4 đầu như cơ tam đầu cánh tay, cơ tứ đầu đùi).
Khi co, các sợi cơ ngắn lại tạo ra lực kéo đầu cơ bám ở xa gần lại làm cho xương có đầu xa bám vào chuyển động theo chiều co của cơ quanh một khớp. Để co và tạo ra lực, cơ sử dụng năng lượng từ phản ứng đốt cháy glucose (đường) bằng oxy do máu cung cấp. Oxy này máu lấy từ khí trời trong quá trình hít thở ở phổi. Do vậy khi vận động mạnh và nhiều, phổi phải hít thở nhanh và nhiều để lấy đủ oxy; tim phải đập nhanh và mạnh hơn để kịp mang oxy đến cho cơ sử dụng.
AIKIDO chủ yếu ra đòn tác động vào chi trên (tay) của đối thủ nên ở đây chỉ trình bày cấu trúc giải phẫu và vận động của chi trên.
2.2 Phân đoạn chi trên
Chi trên có thể được phân thành 4 vùng (đoạn):
1. Vùng vai: Phần cao nhất của lồng ngực
2. Cánh tay: Đoạn đi từ vai đến cùi chỏ
3. Cẳng tay: Đoạn đi từ cùi chỏ đến cổ tay
4. Bàn tay: Đoạn cuối từ cổ tay đến các ngón tay
Giữa các đoạn này là các vùng khớp: khớp vai, khớp khuỷu (cùi chỏ) và cổ tay. Chúng ta tạm gọi là vùng khớp vì ở đây có nhiều khớp chứ không phải chỉ có một khớp.
Quy ước giải phẫu: Đứng thẳng, hai tay để dọc sát 2 bên thân, lòng bàn tay hướng ra trước, ngón út ở sát thân người (phía trong), ngón cái ở xa thân (phía ngoài).
2.3 Xương và khớp chi trên
Vùng vai có 2 xương tạo thành đai vai: Xương đòn nằm vắt ngang phía trước (từ giữa ngực chạy ngang ra chỗ khớp vai) và xương bả vai hình tam giác nằm úp vào phía sau lồng ngực. Góc trên ngoài của xương bả vai là một ụ xương có hình dạng như một cái chén (lõm) gọi là ổ chảo. [Chúng ta có thể sờ thấy xương đòn ở phía trước ngực và các u gờ của xương bả vai ở phía sau lưng.] Đai vai là bệ đỡ để chi trên tựa vững vào thân.
Cánh tay chỉ có một xương to gọi là xương cánh tay: Đầu trên phình to và hướng vào trong tạo thành một hình bán cầu (khớp với ổ chảo của xương bả vai để tạo thành khớp vai). Đầu dưới tận cùng bằng một ụ xương bè ngang hình ròng rọc tạo thành một trụ (ròng rọc) nằm ngang.
Cẳng tay có 2 xương: Một xương làm trục chính gọi là xương trụ (nằm phía trong); xương còn lại có thể xoay một phần quanh xương trụ gọi là xương quay (nằm phía ngoài). Đầu trên xương trụ to và lõm vào để khớp với trụ ròng rọc nằm ngang của xương cánh tay.
Chú ý rằng xương quay nằm phía ngoài (phía ngón cái) và đóng vai trò chính trong động tác sấp ngửa. Khi tay đang ở tư thế ngửa, hai xương trụ và quay nằm song song với nhau: xương trụ ở trong, xương quay ở ngoài. Khi chuyển qua tư thế sấp, đầu trên xương quay chỉ xoay nhẹ nhưng vẫn ở phía ngoài, còn đầu dưới xương quay chồm lên phía trước xương trụ và đi vào trong, làm cho thân của 2 xương vắt chéo với nhau: xương quay ở trên, xương trụ ở dưới.
Vùng cổ tay có nhiều xương nhỏ xếp khớp với nhau và nối với các xương bàn tay, làm cho vùng cổ tay rất linh hoạt. Nối với xương bàn tay là các xương ngón tay, mỗi ngón có nhiều đốt.
PS: Chúng ta sẽ nói nhiều hơn về các khớp trong bài sau (phần "Vận động của chi trên").
2.4 Các cơ chi trên
Chi trên gồm rất nhiều cơ, khi vận động phối hợp với nhau cho phép chi trên thực hiện nhiều cử động đa dạng và phức tạp. Ở đây chúng ta chỉ phác họa một số nhóm cơ chính:
Nhóm cơ vùng ngực nằm xòe rộng phía trước ngực, bám vào các xương sườn rồi tụ lại chạy ra ngoài bám vào vùng đầu trên xương cánh tay. Khi co nhóm cơ này làm khép cánh tay vào thân và xoay cánh tay ra trước.
Nhóm cơ vùng lưng nằm tỏa rộng bám vào xương bả vai và lồng ngực phía sau rồi tụ lại chạy ra ngoài bám vào vùng đầu trên xương cánh tay. Khi co nhóm cơ này làm khép cánh tay vào thân và xoay cánh tay ra sau.
Nhóm cơ mặt trước cánh tay có đầu xa bám vào mặt trước các xương cẳng tay và làm gập cẳng tay vào cánh tay. Ngược lại nhóm cơ mặt sau cánh tay làm duỗi cẳng tay (kéo cẳng tay ra xa khỏi cánh tay).
Tương tự như trên, nhóm cơ ở mặt trước cẳng tay làm cho bàn tay gập vào cẳng tay (gập cổ tay), còn nhóm cơ mặt sau làm duỗi cổ tay. Ngoài ra còn một số cơ làm sấp ngửa bàn tay.
Chú ý rằng vùng cẳng tay có nhiều cơ chạy xuống bàn tay. Các cơ này khi đến vùng cổ tay thì không còn phần thịt nữa mà trở thành các sợi gân. Ngoài ra vùng cổ tay còn có nhiều dây chằng rất rắn chắc để bó giữ khối xương cổ tay lại với nhau. Chính vì vậy cổ tay là một vùng rất mạnh và linh hoạt, nhất là khi xòe rộng bàn tay.
PS: Các võ sư AIKIDO thường xòe rộng bàn tay khi thực hiện các đòn thế và nhiều người giải thích rằng làm như thế để khoáng trương KHÍ.